Quá trình xây dựng các biểu tượng du lịch trên thế giới thường bắt đầu bằng những quyết định táo bạo và mất hàng chục năm để hoàn thiện.
Tháng 1/1971, Malaysia chịu đựng trận lũ lớn nhất thế kỷ qua. Thành phố hỗn loạn, những khu phố ngập cao hai mét rưỡi, hàng nghìn gia đình phải sơ tán. Cách Kuala Lumpur hơn 40 cây số, Lim Goh Tong – người sáng lập tập đoàn Genting – chứng kiến cơ nghiệp bị quật tung trong bão gió. Ông đã dành 6 năm để xây dựng Genting Highlands Resort – khu resort trên núi đầu tiên của Malaysia thời điểm đó.
Sáu năm đó không có một ngày nghỉ, hơn một lần suýt chết trên núi và toàn bộ nguồn lực mà người đàn ông nhập cư gom góp trong 30 năm sự nghiệp. Dự định của Lim Goh Tong là khai trương Genting vào dịp năm mới năm 1971.
Chính phủ Malaysia tuyên bố tình trạng thảm họa quốc gia sau trận lũ lịch sử. Không có ngày khai trương nào cho Genting vào tháng 1/1971. Nhưng cuộc tàn phá đó không khiến Lim Goh Tong sụp đổ. Trước khi bắt tay vào xây dựng, ông xác định rằng đó là một dự án kéo dài 40 năm, tức là nó có thể sẽ chỉ hoàn tất sau khi ông qua đời.
Đó dường như là điểm chung của các khu du lịch và giải trí đi trước thời đại, từ Disneyland, Genting Highlands cho đến tận Sun World Ba Na Hills của Việt Nam: chúng khởi đầu là những quyết định táo bạo và gấp rút, nhưng để hoàn thiện thường là những cuộc cam kết kéo dài đến cả hàng chục năm.
Quyết định táo bạo
Từ một ngôi làng nghèo của tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, Lim Goh Tong đến Malaysia năm 19 tuổi, mưu sinh bằng nghề thợ mộc. Ở quê nhà, nơi cha mất sớm, nghề nông không thể giúp anh nuôi mẹ và các em.
Khi Thế chiến 2 kết thúc và quân Nhật rút khỏi Malaysia, chàng thanh niên Lim bỗng nhận ra một thị trường máy móc rất lớn nhằm phục vụ cho công cuộc tái thiết đất nước. Ông chủ Lim giàu lên nhờ buôn máy móc cũ, rồi từ việc sở hữu máy móc lại trở thành thầu xây dựng. Ở độ tuổi 50, ông muốn có dự án bất động sản của riêng mình.
Ý tưởng về một khu nghỉ mát trên cao hình thành trong đầu Lim Goh Tong từ năm 1963, trong một đêm uống rượu với các kỹ sư tại một dự án thủy điện. Ông kể rằng một cơn gió núi lạnh thổi qua mình đêm ấy khiến ông nhận ra rằng Malaysia cần một khu nghỉ mát trên núi.
Lim mở bản đồ và chọn một vùng núi gần thủ đô Malaysia: Cao nguyên Genting. Địa điểm khi ấy là một khu rừng hoang vu. Không đường lên, không hạ tầng. Lim quyết định xây một resort ở độ cao 1.800 mét.
Khi đó, nhiều người cho rằng quyết định của ông thầu xây dựng này là không tưởng. Thời đó, GDP của Malaysia chưa đến 3 tỷ USD, tức là bằng GDP của Việt Nam năm 1986, năm cuối cùng của thời bao cấp.
Năm 1965, Lim Goh Tong nộp đơn xin gần 5.000 hecta của bang Pahang và 1.100 hecta của bang Selangor. Pahang chấp thuận. Nhưng Selangor chỉ muốn cho ông thuê đất trong 99 năm. Ông Lim tới gặp Thống đốc bang Selangor và nói: dự án này sẽ cần đến 30 hoặc 40 năm và một khối lượng đầu tư khổng lồ để xây đường, khách sạn, đội ngũ, hạ tầng điện nước giữa rừng xanh. Ông muốn được giao đất không thời hạn. Thống đốc bị thuyết phục.
Không cần kể hết khó khăn của một nhà thầu khi một mình xây dựng một khu nghỉ mát hàng nghìn hecta trên đỉnh núi trong suốt 6 năm sau đó. Lim Goh Tong tin rằng đó là số trời. Có ngày, ông về nhà kể với vợ rằng mình vừa suýt bị chết vùi trong đất đá, “nhưng tôi được gọi về để xây nốt khu này”.
Khu resort trên cao nguyên Genting trở thành địa điểm thu hút 30 triệu lượt khách mỗi năm (con số dự kiến của năm 2022, khi xã hội vừa trở lại sau Covid-19). Còn bản thân tập đoàn Genting, trở thành một thương hiệu quốc gia, với doanh thu thường niên khoảng 5 tỷ USD. Họ đang phát triển các khu resort tại Singapore, các tổ hợp giải trí tại Macau, Nhật Bản và khắp châu Á – Thái Bình Dương.
Sau 40 năm, Genting trở thành cái tên đầu tiên được nhắc đến, mỗi khi ai đó nhắc đến một quần thể giải trí tại Đông Nam Á và là hình mẫu cho các quốc gia đang phát triển muốn tạo dựng tên tuổi trên bản đồ du lịch thế giới.
Vị doanh nhân người Tiều chỉ tính sai ở một điểm: Genting vẫn còn đang được tiếp tục xây dựng cho đến tận 60 năm sau ngày khởi công. Hơn một thập kỷ sau ngày Lim Goh Tong ra đi, các con ông vẫn đang miệt mài xây dựng khu resort huyền thoại này. Gần nhất, năm 2017, họ cam kết đầu tư gần một tỷ USD trong thập niên tới cho Genting Highlands Resort.
Giấc mơ khó thế chấp
Nhiều chuyên gia cho rằng, đầu tư các tổ hợp giải trí lớn là bỏ tiền chẵn, thu tiền lẻ. Không chỉ có ông thầu Lim Goh Tong, đến ngay cả Walt Disney – đã sở hữu 24 tượng vàng Oscar, những ngày đầu tiên tìm tiền xây Disneyland, cũng phải thốt lên: “Tôi không thể nào thuyết phục giới tài chính rằng Disneyland là khả thi, vì các giấc mơ có giá trị thế chấp quá thấp”.
Điểm hòa vốn của các tổ hợp du lịch, giải trí như Genting, Sentosa, Disneyland hay sau này là Sun World Ba Na Hills tại Đà Nẵng, không tính bằng năm. Chúng luôn được tính bằng thập kỷ. Trong thời gian đó, chủ đầu tư vẫn luôn phải nghĩ tới việc tái đầu tư, nâng cấp điểm đến.
Trong trường hợp của những khu vực hiểm trở như Genting hay Bà Nà, ngoài tiền phát triển điểm đến, chủ đầu tư còn cần phát triển cả hạ tầng tiếp cận. “Muốn vào bẫy du lịch? Cứ đầu tư vào hạ tầng du lịch”, John Kjorstad, chuyên gia chính sách cao cấp của KPMG viết trên blog của Ngân hàng Thế giới năm 2015. Ông chỉ ra ngay cả những nhà đầu tư sừng sỏ của các nước phát triển cũng có thể “ngã ngựa” vì một dự án hạ tầng du lịch. Hạ tầng dân sinh tất nhiên an toàn hơn.
Đó có lẽ là lý do mà chính quyền thành phố Đà Nẵng, bất chấp khao khát phát triển Bà Nà từ sớm, không thể thuyết phục được các nhà đầu tư lớn lên đỉnh núi này.
Ngay cả các lãnh đạo của Sun Group, trong lần đầu tiên đặt chân lên đỉnh Bà Nà, cũng chung một quan điểm là “rất quan ngại”. “Buồn và âm u”, ông Vũ Huy Thắng, tổng chỉ huy công trình xây dựng cáp treo Bà Nà hồi đó nhớ lại.
“Mỗi năm, khai thác được có ba tháng hè. Hết mùa du lịch là phải dỡ từ chăn màn tivi tủ lạnh đem xuống núi. Mùa mưa, tường lúc nào cũng sũng nước”, ông Đặng Minh Trường, Chủ tịch HĐQT Sun Group nói về tình trạng kinh doanh du lịch trên đỉnh núi thời điểm năm 2007.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch Lê Quang Tùng cũng tỏ ý ngạc nhiên khi Sun Group quyết định đầu tư, bởi “nơi này xa thành phố, lại không có biển”, ông nói, khi tham quan dự án tại Bà Nà năm 2008.
Việc xây dựng một tuyến cáp treo lập nhiều kỷ lục thế giới lên tận đỉnh Bà Nà – để tạo thành một luồng du lịch “không tiếp cận” (khách không trực tiếp đặt chân lên rừng già) – chỉ có thể hoàn thành nhờ vào sự quyết tâm kiến tạo lên một biểu tượng du lịch mới.
Và thực tế, cũng giống như hành trình của Genting hay Disneyland, hoàn tất xây dựng một giai đoạn và khai trương chỉ là điểm khởi đầu. Ông Đặng Minh Trường nhớ lại rằng cũng có những mùa Đông đầu tiên, mỗi ngày chỉ đón vài trăm lượt khách, nhưng vẫn phải vận hành toàn bộ khu du lịch. Cứ mỗi mùa ẩm qua đi, là một cuộc thay thế toàn bộ trang thiết bị vì không thể chịu được sự khắc nghiệt của thời tiết trên đỉnh núi.
Hành trình kiến tạo biểu tượng du lịch mới chỉ bắt đầu
Không thể phủ nhận những gì Sun World Ba Na Hills sau này mang lại cho Đà Nẵng và thương hiệu của ngành du lịch Việt Nam. Trước khi có “hiện tượng Cầu Vàng”, tổ hợp giải trí trên đỉnh núi này đã là thương hiệu chính yếu của du lịch miền Trung. Một vài nhà cung cấp tour quốc tế khẳng định, rằng cứ 3 khách liên hệ đặt tour đến Đà Nẵng thì có 2 người yêu cầu Cầu Vàng và Sun World Ba Na Hills.
Sau “hiện tượng Cầu Vàng” với hơn 200 bài báo quốc tế và hình ảnh cây cầu lấp lánh trong mây tràn ngập mạng xã hội, Việt Nam có một biểu tượng du lịch mới. Nhưng thành công đến sớm không có nghĩa là hành trình của Sun World Ba Na Hills ngắn hơn hành trình của Genting hay Disneyland.
Ngày nay, nhiều triệu lượt khách ghé thăm Sun World Ba Na Hills mỗi năm và tham gia vào một chuỗi trải nghiệm bất tận. Trước đây, Sun World Ba Na Hills thu hút du khách bằng cảnh quan thiên nhiên trong lành, mát mẻ và những công trình mang sắc màu châu Âu như khách sạn Làng Pháp, Nhà thờ, các vườn hoa đủ loại hay công viên giải trí trong nhà Fantasy Park.
Tuy nhiên, qua mỗi năm, Sun World Ba Na Hills lại đem đến những trải nghiệm mới. Mục tiêu của tổ hợp này là khiến du khách mỗi lần quay trở lại, lại thấy choáng ngợp bởi những sản phẩm đẳng cấp khác. Nếu năm 2018 có Cầu Vàng, có show Vũ hội Ánh Dương thì hiện nay, du khách có thể tận hưởng hàng loạt sản phẩm mới như Thác Thần Mặt Trời, Lâu đài Mặt Trăng, Cổng thời gian, show Trận chiến ở Vương quốc Mặt trăng…
Trong tầm nhìn của Sun Group, Sun World Ba Na Hills sẽ phải nằm ở cùng đẳng cấp của Genting hay Disneyland, ở cả khía cạnh trải nghiệm lẫn kiến trúc, và qua đó, là số lượng khổng lồ 20-30 triệu lượt khách mỗi năm. Bức tranh tương lai của Bà Nà sẽ là những công trình ghi dấu ấn của các kiến trúc sư hàng đầu thế giới…
Nhiều người cho rằng, Sun World Ba Na Hills là hình ảnh tiêu biểu cho nỗ lực xây dựng biểu tượng quốc gia trong một ngành đặc thù: du lịch – nơi mà người ta phải quyết nhanh nhưng lại phải đi lâu dài, đổ tiền chẵn kiếm tiền lẻ và đặt vấn đề bằng hạ tầng nhưng thành công lại nằm ở chi tiết.
Cho đến năm 2019, số tiền thể hiện trên giấy tờ mà Sun Group xây dựng Sun World Ba Na Hills là 8.000 tỷ đồng, nhưng ông Đặng Minh Trường tin rằng thực tế con số sẽ còn lớn hơn nhiều lần như thế. “Mười năm bây giờ mới chỉ là bắt đầu”, Chủ tịch HĐQT Sun Group nói nhân 10 năm ngày khánh thành cáp treo Bà Nà.